KHÁM PHÁ ẨM THỰC VÙNG CAO HÀ GIANG

Từ lâu, Hà Giang luôn được nhắc tới như một địa danh với nhiều điểm tham quan hùng vĩ bởi nơi đây có núi non trùng trùng điệp điệp, có hoa tam giác mạch, Công viên Địa chất cùng con người rất thân thiện và cực kì mến khách. Bên cạnh đó, một trong những điều hấp dẫn du khách ở nơi đây là ẩm thực, đặc biệt phải kể đến những món ăn như:

Món Cháo Âú Tẩu

1.Cháo ấu tẩu
Trong đó củ ấu tẩu không chỉ dùng làm vị thuốc mà còn được người dân nơi đây chế biến thành một món ăn độc đáo: cháo ấu tẩu.
Còn có tên gọi là ô đầu và phụ tử, củ ấu tẩu thường mọc ở vùng núi cao, khí hậu lạnh. Theo y học ấu tẩu có vị cay tê, tính nóng, có tác dụng chữa bệnh rất tốt. Từ lâu người Mông đã dùng củ ấu tẩu ngâm xoa bóp chân khi đau nhức hoặc chữa cảm gió rất hiệu quả. Bát cháo ấu tẩu ban đầu chỉ được biết đến như món cháo giải cảm của đồng bào dân tộc Mông. Sau này, người dân Hà Giang thêm một số gia vị, phụ gia khác, nấu thành món cháo “đặc sản” của xứ sở mờ sương, ăn ngon miệng lạ lùng.
Bản chất ẩu tấu rất độc, muốn giảm bớt độc tính phải có bí quyết. Chọn gạo tẻ, nếp cái trồng trên nương của đồng bào dân tộc, chân giò của lợn cắp nách, ninh trong 4 tiếng… qua một số công đoạn công phu mới có được bát cháo ấu tẩu hoàn hảo. Ngâm kỹ ấu tẩu trong nước vo gạo một đêm, rửa sạch đem ninh cho tới khi mềm, bở tơi thành thứ bột đặc sền sệt. Bột củ ấu tẩu được nấu lẫn gạo và nước dùng ninh từ chân giò lợn. Cuối cùng khi bắc ra đập trứng gà, cho thêm ớt, tiêu, hành, rau mùi và tía tô tăng thêm tác dụng giải cảm của bát cháo.

Cháo
Cháo nấu xong mang sắc nâu đậm, nhìn giống bát cháo lòng của người miền xuôi, vị bùi, béo và thơm đặc biệt. Vì là vị thuốc nên đặc trưng của cháo ấu tẩu là vị đắng như tam thất. Tuy nhiên cái đắng hòa cùng miếng ấu tẩu bùi, dẻo, quyện với cái ngọt của nước xương ninh và thơm ngậy của trứng đọng lại thành hương thơm, vị ngọt ngào trong cổ, tạo cảm giác lạ miệng và hấp dẫn.Cháo ấu tẩu có cả bốn mùa nhưng đặc biệt chỉ bán vào buổi tối. Bởi lẽ theo kinh nghiệm lâu năm của những người dân ở đây cháo có tác dụng tốt nhất qua giấc ngủ đêm. Với nhiều người dân ở thị xã vùng cao này cháo ấu tẩu là món ăn đêm thường nhật. Tối tối khi nhà nhà lên đèn cũng là lúc hàng cháo ấu tẩu tấp nập khách ra vào. Đó có thể là các bác luống tuổi ăn cháo để bồi bổ xương cốt, là khách đi chơi khuya, là dân buôn bán tứ xứ…nhưng dù là đối tượng nào bát cháo ấu tẩu cũng như vị thuốc thần giúp xoa tan mệt nhọc của một ngày để có một giấc ngủ sâu và khoan khoái hơn.

2. Thắng cố Hà Giang
Thắng Cố

Mùi thơm của thảo quả, hạt dổi và củ sả, quyện với vị béo ngậy của thịt làm ấm lại không gian giữa tiết trời se lạnh. Đàn ông Mông đi chợ Đồng Văn đều mong được ăn một bát thắng cố, uống vài bát rượu với bạn bè. Người ta quan niệm ai có nhiều bạn thì người ấy được mời nhiều rượu. Người nào say khi về chợ là người tốt phúc bởi có nhiều bạn


Đừng quên thưởng thức một tô thắng cố nghi ngút khói với vị béo ngậy cộng chút bùi bùi độc đáo khác lạ. Thắng cố là món ăn không thể thiếu khi nhắc đến văn hóa ẩm thực của Hà Giang. Nguyên liệu chính của thắng cố là toàn bộ phần nội tạng, xương của trâu, bò, ngựa hay dê đem cho tất cả vào chảo xào qua lửa rồi đổ nước vào ninh kỹ trong nhiều giờ.

Đồng bào Mông thường mang theo mèn mén, đến chợ mua thêm bát rượu và thắng cố là có thể mời bạn bè vui chung. Ăn thắng cố phải ngồi xổm, đặt thức ăn lên một tấm gỗ dài và ăn bằng muôi (muỗng) gỗ. Bên cạnh bao giờ cũng có bát muối cùng với ớt tươi dầm thật cay. Một muôi thắng cố nóng với chút muối ớt sẽ rất đậm đà. Ăn thắng cố nhất thiết phải có bạn để hỏi thăm chuyện gia đình, chúc nhau sức khỏe và cười vang chợ. Uống rượu đến độ ngà ngà sẽ hát và thổi khèn. Con trai con gái đều có thể say rượu bên bàn thắng cố. Nhâm nhi chén rượu ngô, đặc sản nổi tiếng đã trở thành thương hiệu riêng của mảnh đất Hà Giang. Rượu có hương thơm dịu của thứ men lá đặc trưng, vị nồng êm và ngọt của ngô núi.
Lạp Xường


3. Lạp xưởng vùng cao
Mỗi dịp tết đến, đã thành lệ, cứ đến khoảng 27, 28 tháng Chạp, người dân khắp các bản làng lại nô nức rủ nhau mổ lợn. Cứ hai, ba nhà chung nhau đụng một con. Thịt để làm nhân bánh chưng, làm các món kho, nướng, quay, luộc… ăn trong mấy ngày tết. Và bao giờ người ta cũng dành ra một ít lòng non, một phần thịt để làm lấy một vài cân lạp xường (có nơi còn gọi là lạp xưởng hay lạp sườn)
Để làm nhân lạp xường người ta chọn loại thịt nửa nạc nửa mỡ. Bởi nạc nhiều, lạp xường sẽ khô, sác; mỡ nhiều, lạp xường sẽ nhão, ăn mau ngấy nên loại thịt thích hợp nhất để làm lạp xường là thịt vai. Thịt được lạng bỏ lớp bì, thái miếng vừa phải, ướp muối, đường, bột ngọt. Và không thể thiếu một ít rượu trắng, một ít nước gừng và một ít quả mắc mật khô xay nhỏ ướp cùng. Theo kinh nghiệm của đồng bào nơi đây thì ướp thịt với rượu trắng và nước gừng như vậy khiến cho lạp xường sẽ có mùi thơm rất đặc trưng, để được lâu mà không bị hỏng. Công việc phức tạp nhất là nhồi lạp xường. Với một chiếc phễu và một chiếc đũa, từ từ dồn thịt vào cho đầy phần lòng non đã chuẩn bị. Để dễ làm, cứ nhồi được chừng hai ba mươi phân thì buộc lại thành khúc. Thỉnh thoảng lại lấy kim châm vài chỗ cho khí thoát ra để lạp xường khỏi nứt. Nhồi xong thì đem lạp xường đi phơi nắng cho khô dần. Hoặc đem hong trên gác bếp. Hơi ấm của bếp lửa sẽ làm lạp xường se lại, săn chắc. Lạp xường được nắng, được hơi lửa, cứ ánh lên màu đỏ hồng của thịt nạc xen những đường vân trắng ngà của thịt mỡ trông thật hấp dẫn. Ngày 27, 28 làm lạp xường thì khoảng mồng 2, mồng 3 tết là ăn được.
Lạp xường khi đã khô thì để nguyên cả khúc đem chiên cho chín sau đó mới thái lát, khi ăn chấm với mắm gừng. Hoặc thái lạp xường thành các khoanh dầy vừa phải, chờ cho mỡ trong chảo thật nóng già thì cho lạp xường vào, đảo lên, rưới thêm ít nước mắm, rắc thêm chút hành tươi. Đĩa lạp xường thơm phức, mới trông đã thấy thèm. Cho nên ngày tết, dù có bao món ngon, lạp xường vẫn là món được mọi người đụng đũa nhiều hơn cả.
Lạp xường có mùi của nắng vùng cao, mùi của khói bếp, thoảng mùi gừng, mùi rượu, mùi mắc mật thơm một cách đặc biệt. Vị dai của lòng, vị ngọt của thịt nạc, vị béo của mỡ hòa quyện với nhau, ăn thật ngon miệng. Nhấp thêm chút rượu nữa thì càng thêm khoái khẩu.
Thắng Đền

4. Thắng dền trên Cao nguyên đá
Ai lên Đồng Văn (Hà Giang) cũng muốn một lần thưởng thức thắng dền. Nếu thắng cố chỉ ăn trong những phiên chợ, còn giữa thị trấn hun hút gió này vào mùa đông mà được ngồi bên bếp lửa ăn bát thắng dền, thật không có gì ấm áp và thú vị bằng.
Đây là một món ăn chơi của người Hà Giang nói chung và là món ăn “gọi bạn” quây quầy bên nhau nói riêng ở thị trấn Đồng Văn những đêm đông giá rét. Sau bữa tối với nhiều đặc sản Đồng Văn từ thịt gác bếp đến xúc xích lợn, thưởng thức một bát thắng dền ấm bụng quả là một lựa chọn thanh tao, hợp lý.
Thắng dền trông giống bánh trôi tàu ở Hà Nội, giống bánh cống phù ở Lạng Sơn, được làm từ bột gạo nếp, có thể làm chay hoặc bọc nhân đậu đỗ. Mỗi viên bột được nặn to hơn đầu ngón tay cái chút xíu, cho vào nồi nước dùng luộc, đến khi nổi lên chủ quán sẽ dùng muôi vớt ra. Thắng dền thơm ngon hay không là ở bát nước dùng, được pha bởi hỗn hợp ngọt ngào của đường, béo ngậy của nước cốt dừa và cay cay của gừng đun nóng. Có thể rắc thêm vừng hoặc lạc cho món ăn thêm bùi. Khách ăn thường bỏ một hai viên thắng dền vào ngậm trong miệng một lúc, ngấm cái vị ngọt béo của nước đường, vị cay se se của gừng tươi, vị bùi ngậy của vừng lạc.

Cơm Lam


5. Cơm lam Bắc Mê Hà Giang
Hà Giang là một vùng phì nhiêu với những loại gạo nếp thơm ngon nổi tiếng thì cơm lam Bắc Mê đang dần trở thành một đặc sản đặc trưng của đồng bào dân tộc Tày nơi đây. Kỹ thuật chế biến cơm lam thật đơn giản. Nguyên liệu là gạo nếp được đãi ngâm kỹ, nước nấu thường là những mạch nước ngầm trong cùng cho vào cho ống tre rồi bịt lá chuối . . Người ta dùng loại cây non, thân ống, họ tre , mỗi dóng tre chặt bỏ một đầu ống, đầu ống còn lại tác dụng như cái đáy nồi. Gạo nếp vo sạch, rắc thêm chút muối, trộn đều, cho gạo vào ống tre, lượng nước đổ xâm xấp so với mặt gạo. Miệng ống được nút bằng lá dong tươi hoặc lá chuối khô và nướng lên
Ống tre có gạo ấy được hơ trên ngọn lửa hoặc trên đống than hồng, vừa hơ vừa xoay tròn từ từ cho nhiệt tác dụng đều lên xung quanh vỏ ống. Chừng trên dưới một tiếng sau (tuỳ theo ống cơm to hay bé), mùi cơm nếp toả ra thơm lừng, ấy là dấu hiệu cơm đã chín. Trước khi ăn, người ta dùng dao chẻ bỏ lớp vỏ màu xanh ngoài cùng của ống tre (lúc này đã cháy đen), sau đó tước nốt lớp vỏ trắng trong cùng, cơm lam định hình ở dạng ống đặc, được bao quanh bởi một vỏ lụa mỏng màu trắng ngà của ruột ống tre (đến tận lúc này, cơm lam vẫn không hề mang màu lam như tên gọi của nó).
Ngày trước cơm lam là món ăn ưu tiên cho sản phụ và nói chung là phụ nữ trong thời kỳ nuôi con bú. Một cách lý giải mang tính khoa học, rằng ăn cơm lam sẽ tránh được các chất của đồng, gang, nhôm… so với việc nấu cơm bằng nồi kim loại. Và như vậy, không gây ảnh hưởng tới khả năng làm sữa cũng như chất lượng nguồn sữa của người mẹ. Khi thưởng thức, cơm lam có mùi thơm phức quyện cùng với lá chuối và ống nướng. Cơm lam có thể ăn không hoặc chấm muối vừng hay ăn cùng cá suối nướng sẽ trổ nên thơm, bùi hơn.
Thịt Lợn Hun Khói


6. Thịt lợn hun khói
Miếng thịt gần như đã chín từ bên trong, người dân chỉ việc sơ chế qua là có thể dùng được ngay. Khi thưởng thức có vị ngọt rất thơm ngon và không “ngấy”. Thịt lợn hun khói của đồng bào dân tộc ở Hà Giang đã có rất lâu, và trở thành một đặc sản của địa phương. Thịt lợn hun khói ở đây mang đậm phong vị núi rừng, ăn rồi mới thấy khác. Hằng năm cứ đến mùa đông người dân mới chọn những miếng thịt lợn ngon về, thái mỏng rồi treo lên nóc bếp. Hơi nóng của lửa sẽ làm cho miếng thịt săn lại, mỡ chảy ra, khi ăn thịt hun khói sẽ được chế biến thành nhiều món khác nhau như: luộc, nướng, xào, hoặc kho cùng củ cải… rất đa dạng
Thông thường người ta chỉ dùng thịt lợn ba chỉ, đôi khi là thịt mông, vai. Các món ăn được chế biến từ thịt lợn hun khói ngon hơn so với các loại thịt lợn không treo nóc bếp, miếng thịt chắc, không bị nát, có mùi thơm rất đặc trưng.
Hiện nay ở vùng núi phía bắc nước ta, món thịt lợn hun khói đã trở thành món ẩm thực không thể thiếu trong các gia đình người Mường, Thái, Mông, Tày… vào ngày Tết, hầu như nhà nào cũng có thịt treo nóc bếp.
Nộm Tái Dê

7. Nộm tái dê – Thịt bò khô Đồng Văn
Nộm tái dê: Dê núi đá, món ăn bổ dưỡng, thường thì chọn loại thịt bắp, thui vàng chín tới, thái lát ngang thớ thật mỏng, trộn với nước chanh tươi, vừng rang, sả, ớt, gia vị khi ăn dùng bánh đa cuốn thịt dê với chuối xanh, khế thái lát, lá sung, rau thơm chấm với tương gừng. Đây là món ăn khoái khẩu rất nhiều người ưa chuộng.



Thịt bò khô: Đây là một loại đặc sản có giá trị cao, được chế biến rất công phu, thịt bò được chọn từ thịt bắp, thái dọc thớ được tẩm ướp gia vị gừng, rượu… hong khói; sấy khô bằng than củi. Khi ăn ngâm nước ấm cho mềm, thái lát mỏng xào với lá tỏi tươi hoặc các loại rau đậu. Nếu ăn nướng thì vùi thịt trong tro nóng. Khi chín mang mang ra lau sạch tro, dùng chày gỗ dập tơi xé thành từng sợi chấm với tương ớt. Trong tiết trời se lạnh bên bếp lửa bập bùng ở vùng cao với mòn thịt bò khô cùng chén rượu ngô thơm mát cùng với những người bạn hiền chắc hẳn rất thú vị.

Nước chè

Trong khung cảnh thời tiết lành lạnh bên bếp lửa bập bùng vùng sơn cước, ai đã từng một lần thưởng thức sẽ không bao giờ quên được nước chè tuyết ,chè san
Thưởng Thức Rượu Ngô


8. Rượu ngô, men lá:
Đến với Hà Giang, ngoài các món ăn đặc sản vùng cao, du khách không thể từ chối, bỏ qua chén rượu ngô thơm mát được chế biến từ ngô hạt đồ chín ủ với men lá (men lá được chế từ hơn 30 loại thảo dược  trong rừng) và được chưng cất từ nguồn nước tinh khiết trên núi hiện có nhiều loại rượu ngô ngon nổi tiếng được khách hàng trong và ngoài tỉnh ưa chuộng như rượu ngô Thanh Vân (Quản Bạ), Rượu Nà Mạ (Yên Minh), rượu Thiên Hương (Đồng Văn)…
Ngoài những món ăn đặc sản, đến với Hà Giang du khách còn được biết đến những đặc sản nổi tiếng như: Cam sành, Chè Shan tuyết, mật ong bạc hà… Du khách khó có thể quên dù mới đến một lần.
 
Top